Cùng với việc chế tác, nghệ thuật thổi khèn, múa khèn vào dịp lễ, tết là một trong những phong tục truyền thống đặc trưng, thể hiện nét đẹp văn hóa của đồng bào Mông. Với họ, cây khèn không chỉ đơn thuần là nhạc cụ để gửi gắm, thổ lộ tâm tình; tiếng khèn
Trang phục dân tộc Mèo Mông: Quần áo may bằng vải lanh tự dệt. Nữ mặc váy xoè rộng, áo xẻ ngực, tạp dề trước và sau, đầu đội vấn, Nam mặc trang phục dài tay, đội nón bê rê phù hợp điều kiện thời tiết lạnh. Chất liệu trang phục biểu diễn dân tộc tại cửa
Chuyên trang về Nhạc cụ dân tộc mông Bán Nhạc Cụ Dân Tộc - 0918469400 - 0982013406 - Đàn Cò Đạo Cụ Biểu Diễn Chuyên Nghiệp Trang Phục Biểu Diễn Hoa Mai Chuyên Cho Thuê Đồ Múa Các Mẫu Trang Phục Dân Tộc Như Trang Phục Tây Bắc Dân Tộc H'mông (Mèo), Trang Phục Dân Tộc Tây
Bộ quần áo của phụ nữ dân tộc Mông gồm có khăn quấn đầu, khăn len (cũng là khăn đội đầu) được dệt bằng tay, váy, yếm được thêu bằng tay. Bộ trang phục được đính những hạt cườm rất cầu kỳ, tỉ mỉ. Chính bởi sự tỉ mỉ trong từng công đoạn may, thêu từng
Nhạc múa hay - Nhạc không lời Tải download 320 nhạc chờ Nhac mua hay,- Nhac khong loi Hòa Tấu Nhạc Cụ Dân Tộc Phạm Đức Thành , Xuân Nhung , Việt Hồng , Mèo Ú Guitar , Trần Hoài Phương , Guitar Vĩnh Tâm , Quyền Văn Minh . Hòa Tấu Bolero Hải Phượng , Phương Thùy , Hòa Tấu , Vô
cash. Múa Những cánh hoa xuân Âm nhạc NS Nguyễn Văn Thương Biên đạo NSND Minh Hiến Dàn dựng NSND Chu Thúy Quỳnh Biểu diễn Tập thể diễn viên Múa - Nhà hát Ca, Múa, Nhạc Việt Nam Published by ART LEN’K Published at 4 years ago Category سرگرمی
Dân tộc Mông, dân tộc thiểu số đặc biệt trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, sống chủ yếu trên những vùng núi có độ cao từ m trở lên. Cùng với 53 dân tộc anh em, người Mông luôn là một phần trong sự thống nhất của khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú văn hoá các dân tộc Việt Nam Sự phân bố dân cư và lịch sử. Người Mèo là một trong bảy dân tộc thiểu số tương đối đông ở miền Bắc nước ta, có người Theo thống kê năm 2009, sống ở vùng cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hòa Bình, Hà Tây. Trong các tỉnh người Mèo cư trú xen kẽ với nhiều dân tộc anh em khác, nhưng không giống với nhiều dân tộc như Dao, Lô Lô, Pu Péo…Họ ở tập trung thành từng vùng rõ rệt, trong đó người Mèo chiếm tỉ lệ dân số cao so với các dân tộc anh em cùng chung sống. Những khu vực tập trung đông người Mèo ở miền Bắc nước ta là cao nguyên Đồng Văn, Hoàng Su Phì – Bắc Hà – Mường Khương, Mù Cang Chải – Trạm Tấu – Bắc Yên, Sa Pa – Phong Thổ – Sìn Hồ – Tủa Chùa, Điện Biên và các khu vực tiếp giáp của các huyện Thuận Châu và Tuần Giáo. Những vùng cư trú của người Mèo không gắn liền với nhau thành một dải, mà thường bị ngăn cách bởi nhiều khu vực cư trú của các dân tộc, nhưng trong quan hệ dòng họ và hôn nhân, nhân dân các vùng nhất là các vùng tiếp giáp nhau còn những mối liên hệ nhất định. Các vùng cư trú của đồng bào Mèo thường là những sườn núi có độ dốc cao trung bình từ 800m đến – so với mực nước biển, địa hình hiểm trở, vách đá dựng đứng trên những thung lũng dạng hẻm vực. Ở Tây Bắc địa hình cao hơn và sự chia cắt theo chiều đứng mạnh hơn so với Đông Bắc. Ở độ cao từ 800m – khí hậu vùng Mèo nằm trong vành đai khí hậu cận nhiệt đới, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 15 – 20 độ C. Lượng mưa hàng năm từ – milimét, nhưng ở những nơi khuất gió, lượng mưa chỉ độ 700 milimét. Đặc điểm độ mưa là một mùa mưa, một mùa khô mà trong mùa khô lượng mưa hàng tháng chỉ vài chục milimét hoặc có khi không mưa, nên thường thiếu nước. Đất ở vùng Mèo nằm trên khu đất latêric có mùn. Trên vành đai này ở những nơi rừng ít bị tàn phá thì thực vật còn nhiều, các cây rụng lá tăng lên, do đó tỉ lệ mùn đạt từ 5 – 8%. Vì có nhiều mùn nên đất màu xám, ở phía dưới đất màu nâu. Kiểu rừng rậm cận nhiệt đới, ẩm ướt thường thấy trên các núi cao Bắc Kạn, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lai Châu, Điện Biên…Song rừng đã bị tàn phá nhiều, thoái hóa thành rừng thứ sinh hoặc xavan và mỗi vùng có đặc điểm riêng. Tuy nhiên vẫn chưa hết những cánh rừng nhiều thứ gỗ quí, nhiều thú ăn thịt và các loài ăn cỏ… Với tinh thần lao động cần cù và sáng tạo người Mèo biến nhiều vùng cao miền Bắc nước ta thành nơi có thể sinh sống ngày càng giàu đẹp, thành quê hương thân yêu của mình. Đồng bào thường nói Cá ở dưới nước Chim bay trên trời, Chúng ta sống ở vùng cao. Và con chim có tổ, Người Mèo ta cũng có quê, Quê ta là Mèo Vạc. Đồng bào ở cao nguyên Đồng Văn còn cho rằng trên đỉnh núi Mèo Vạc có giếng thần và có đôi chim chuyên nhặt lá cây để nước giếng trong sạch. Người ta muốn uống nước giếng thần để khi ốm đau bệnh chóng khỏi, khi chết hồn được về với tổ tiên. Vì vậy trước đây những người có tuổi đều mong muốn đến thăm Mèo Vạc – “nơi quê cha đất tổ” và “ được uống nước giếng thần” . Lòng yêu quê hương xứ sở; trên cơ sở đó nảy nở lòng yêu nước Việt Nam anh hùng của người Mèo. Lòng yêu nước đó ngày càng được củng cố trong quá trình sát cánh cùng các dân tôc anh em đấu tranh bảo vệ đất nước và xây dưng cuộc sống mới. Đại bộ phận người Mèo nước ta gọi là Mống sau này gọi là Mông, một nhóm người khác gọi là Ná Miảo. Mống cũng là tên tự gọi người Mèo ở Lào, Thái Lan và ở Xuyên, Kiềm, Diên Nam Trung Quốc. Ngoài ý nghĩa chỉ cộng đồng tộc người, Mống còn là từ gọi dòng họ. Mèo là tên gọi có nguồn gốc lịch sử lâu đời. Tộc danh Mèo theo âm Hán – Việt là Miêu, theo một số nhà nghiên cứu là tên dùng để gọi những người đã sớm biết nghề trồng lúa ở vùng hồ Bành Lãi Tỉnh Giang Châu và hồ Động Đình Tỉnh Hồ Nam Trung Quốc ngày nay, ngày nay đã trở thành tên gọi chính thức. Dựa vào một số đặc điểm dân tộc học, có thể phân người Mèo tự gọi là Mống ở nước ta thành các nhóm Mông trắng, Mông hoa, Mông xanh, Mông đen. Người Mèo được coi là con cháu của một trong những cư dân bản địa cổ ở Nam Trung Quốc. Sự gần gũi giữa tiếng Mèo và tiếng Dao được nhiều người giải thích bằng nguồn gốc chung của hai dân tộc này trong thời cổ đại. Từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX, người Mèo và người Dao bắt đầu tách thành những cộng đồng dân tộc riêng. Từ thế kỷ thứ IX đến thế kỷ XVI, người Mèo phải thường xuyên đi về phía Nam để tránh sự áp bức bóc lột của phong kiến. Trong các thế kỷ đó, người Mèo ở Quí Châu tương đối đông. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX dưới sự thống trị của nhà Mãn Thanh, chế độ thổ ty cha truyền con nối có từ thời Minh đã được thay bằng chế độ bổ nhiệm hơn nữa chỉ bổ nhiệm người Mãn và người Hán, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các dân tộc khác trong đó có người Mèo và hai dân tộc này. Mâu thuẫn sâu sắc trong xã hội được thể hiện rõ trong các phong trào nổi dậy của quần chúng; đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, người Mèo đã tham gia khá đông. Dưới thời Quốc Dân Đảng, người Mèo cũng không tránh khỏi bị áp bức bóc lột nặng nề và phải đấu tranh không ngừng. Từ Tây Nam Trung Quốc, người Mèo đã di cư đến Việt Nam trong những thời gian và nhiều đợt khác nhau. Nguyên nhân của các cuộc di cư như đã nói là sự mong muốn thoát khỏi tình trạng áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến Mãn – Hán, muốn thoát khỏi sư tàn sát sau những cuộc phản kháng, muốn có nơi sinh sống tốt hơn. Những đợt di cư đầu tiên của người Mèo cách đây gần 400 năm đến các vùng biên giới thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái. Sau đó, các luồng di cư lớn vào khoảng 300 năm và gần 200 năm trước đây. Hầu hết người Mèo nước ta còn nhớ là họ đã từ Quí Châu đến Việt Nam. Lịch sử thiên di của người Mèo cũng là lịch sử đấu tranh không ngừng chống phong kiến áp bức dân tộc. Đến Việt Nam họ mong muốn có cuộc sống ổn định và ấm no hơn. Trong đồng bào có lưu truyền rằng Việt Nam là nơi có nhiều đất đai màu mỡ và dễ làm ăn, nơi có quả bí to như cái vạc mà lợn rừng có thể khoét lỗ chui vào đó đẻ con, nó vừa là ổ, vừa là thức ăn cho lợn; nơi trồng cây lương thực gốc có củ, thân có bắp, ngọn trổ lúa. Trước khi đồng bào đến những vùng hiện nay, ở đó đã có người sinh sống, nhưng rất thưa thớt, rừng rậm còn nhiều, đất mới khai thác, mùa màng thường tốt. Dần dần đồng bào đã có những đám nương, ruộng bậc thang mà mình cần. Nhưng ở đây họ cũng không thoát khỏi ách bóc lột, nhất là từ lúc thưc dân Pháp xâm lược đặt ách thống trị. Bởi vậy, nhiều cuộc đấu tranh của người Mèo đã nổ ra – Cuộc đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp xâm nhập Bắc Hà do hai anh em Dương Chính Hồng Giàng Chẩn Hùng và Dương Chính Vinh Giàng Chẩn Dùng lãnh đạo 1886 – 1897. – Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của người Mèo và Dao do Đào Chính Lục Thào Chểnh Lù và Đặng Phúc Thành đứng đầu ở Mù Cang Chải, Than Uyên, Văn Chấn tỉnh Yên Bái 1889 – 1897. – Cuộc đấu tranh chống phu, thuế của đồng bào Mèo 2 tỉnh Cao Lạng 1904. – Cuộc đấu tranh của đồng bào Mèo ở cao nguyên Đồng Văn tỉnh Hà Giang do Sùng Mí Chiảng lãnh đạo 1911 – 1912. – Cuộc đấu tranh của đồng bào Mèo Lai Châu, Điện Biên, Sơn La do Pa Chay lãnh đạo 1918 – 1922. Đặc điểm nổi bật của các cuộc đấu tranh đều là đấu tranh vũ trang với tinh thần dân tộc cao với mục đích đấu tranh cụ thể “không đi phu, không nộp thuế, tự do chuyên chở muối và thuốc phiện” 1911 – 1912, “Quyết tâm tiêu diệt đồn Bắc Hà” 1886 – 1897”. Vì thế đã nhanh chóng tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân bao gồm cả già trẻ, gái trai tiến hành đấu tranh vũ trang gây cho địch nhiều tổn thất. Bọn thực dân Pháp đã phải huy động những lực lượng lớn để tiến hành càn quét phá hoại mùa màng lương thực, vừa đàn áp, vừa mua chuộc lôi kéo quần chúng. Người Mèo đã chiến đấu ngoan cường, thực hiện vườn không nhà trống, hy sinh tất cả; nhưng cuối cùng họ đều thất bại vì sự lạc hậu về tổ chức, lãnh đạo, chưa biết đoàn kết các dân tộc anh em. Tuy vậy, bọn thực dân Pháp đã không dập tắt được tinh thần phản kháng của đồng bào. Tinh thần đó được phát huy mạnh mẽ khi có sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân. Còn nữa
VOV5 - Mông là một trong những dân tộc thiểu số có dân số đông nhất ở Việt Nam, sống chủ yếu trên những vùng núi có độ cao từ m trở lên ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An và các tỉnh Tây Nguyên. Cùng với 53 dân tộc anh em, người Mông luôn là một phần trong sự thống nhất của khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú văn hoá các dân tộc Việt Nam. Đồng bào dân tộc Mông di dời từ vùng núi cao Tây Bắc vào lập kinh tế mới ở xã Rômen, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. Nghe nội dung chi tiết tại đây Người Mông được phân biệt thành nhiều nhóm Mông Đơ Mông Trắng, Mông Đu Mông Đen, Mông Lềnh Mông Hoa, Mông Si Mông Đỏ, Mông Dua Mông Xanh, Mông Xúa Mông Mán và nhóm Na Mẻo. Sở dĩ người Mông được phân biệt thành các nhóm như vậy là dựa trên sự khác nhau về trang phục và ngôn ngữ giữa các nhóm Mông. Ví dụ người Mông Trắng mặc váy màu trắng, người Mông Đen thì mặc váy thiên về màu đen nhiều hơn. Ngoài ra, các nhóm người Mông còn được phân biệt dựa trên ngôn ngữ. Mỗi nhóm Mông có những từ vựng cơ bản giống nhau nhưng cũng có rất nhiều từ địa phương khác nhau. Tên gọi của người Mông cũng nói lên văn hóa của họ rất rõ. Người Mông ở Việt Nam trước kia được gọi là người Mèo Miêu. Từ Miêu theo từ Hán Việt chỉ cư dân trồng trọt gắn với cỏ cây, với ruộng vườn. Người Mông là cư dân trồng trọt chứ không phải chăn nuôi. Người Mông rất thạo nông nghiệp, họ sống trên đỉnh núi cao và có hai hình thức canh tác là làm nương rẫy và trồng lúa nước. Người Mông cho rằng trước kia họ đã từng sống ở đồng bằng và họ cũng làm ruộng nên khi lên núi cao sinh sống thì bên cạnh nương rẫy, ở nhiều vùng người Mông cũng phạt núi để làm thành những bậc thang để có thể giữ nước bên trong để trồng lúa nước. Trình độ trồng lúa nước trên các thửa ruộng bậc thang của người Mông rất cao. Điều này gắn với lịch sử người Mông có một truyền thống trồng lúa nước lâu đời. Chị Trần Thu Thủy, Tiến sĩ dân tộc học ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, cho biết “Người Mông di cư về Việt Nam cách đây khoảng 300 – 500 năm. Khi họ di cư về Việt Nam, lúc này thì người Kinh sống ở đồng bằng còn dân tộc nhóm Tày, Thái…thì sống ở vùng thung lũng. Vậy nên người Mông gần như không có đất để sinh sống nên họ sống trên những đỉnh núi cao. Người Mông đã khai thác những vùng đất ở trên vùng núi cao để canh tác nương rẫy, sau này làm ruộng nước, họ biến những sườn đồi, sườn núi thành những thửa ruộng bậc thang để trồng lúa nước. Người Mông là một dân tộc rất đặc biệt, họ thích nghi với mọi điều kiện, hoàn cảnh sống. Tại những nơi điều kiện, hoàn cảnh sống mới thì họ sáng tạo ra những hình thức canh tác mới cũng như những điều kiện văn hóa cho phù hợp với điều kiện sinh sống mới của mình". Người Mông sống ở rất nhiều tỉnh ở Việt Nam nhưng ở mỗi tỉnh, họ sống tập trung ở một vài huyện trong tỉnh đó. Họ rất ít khi sống xen kẽ với các dân tộc khác mà thường cư trú tập trung trong dân tộc mình. Nhà của người Mông bao giờ cũng dựng trên các triền núi, nơi mà phía trước có suối, có nguồn nước, phía sau có núi che chở. Hầu hết người Mông ở các vùng dùng gỗ pơ mu để làm nhà, riêng nhà người Mông ở Hà Giang làm bằng đất trình tường. Do sinh sống ở vùng khí hậu lạnh nên nhà của người Mông thường thấp và không có cửa sổ. Người Mông cho rằng mọi vật đều có linh hồn và ngôi nhà cũng như vậy. Trong ngôi nhà có thần cửa, thần cột, thần bếp, ma nhà để bảo vệ người Mông trước mọi thế lực. Khi đã ra khỏi nhà thì không có các thần trong ngôi nhà bảo vệ nữa thì thường dễ gặp phải rủi ro, bất trắc hoặc có thể bị ma quỷ hãm hại. Vì vậy, khi ra khỏi nhà, người ta phải có một vật gì đó đem theo mình như thứ bùa để bảo vệ họ khỏi ma quỷ. Người Mông là dân tộc theo chế độ phụ hệ. Tính phụ quyền trong gia đình người Mông rất mạnh, người đàn ông đóng vai trò quyết định mọi việc trong gia đình và là người thừa kế tài sản trong gia đình. Người phụ nữ không được thừa kế tài sản trong gia đình, khi lấy chồng thì thứ tài sản duy nhất người con gái được mang về nhà chồng là những đồ trang sức bằng bạc và váy áo. Người Mông thường có quan hệ hôn nhân trong nội tộc, còn hôn nhân với các dân tộc bên ngoài thì cũng có nhưng rất ít. Việc dựng vợ gả chồng là để có con cái nối dõi tông đường đồng thời nâng cao uy tín của dòng họ cũng như tăng lực lượng lao động cho gia đình nên người Mông sinh rất nhiều con. Bố mẹ bao giờ cũng ở với người con trai út. Người con trai út đảm nhiệm vai trò thờ cúng ông bà tổ tiên trong gia đình. Đối với người Mông thì thiết chế dòng họ đóng vai trò rất quan trọng. Trong một họ bao giờ cũng có một người trưởng họ, mỗi khi có vấn đề gì xảy ra trong làng thì người ta có thể tìm đến người trưởng họ là người am hiểu luật lệ, lí lẽ nhất trong họ đó. Mỗi họ lại có quy định, luật lệ khác nhau, mọi người trong họ phải tuân theo quy định, luật lệ đó. Chị Trần Thu Thủy cho biết thêm “Dòng họ rất quan trọng với người Mông còn thể hiện ở chố nếu như cùng một họ có thể sống và chết trong nhà nhau. Cách bố trí việc thờ cúng cũng như cách cúng trong nhà là cách để nhận biết người cùng họ. Con gái khi đi lấy chồng thì người ta quan niệm đã thuộc về dòng họ nhà chồng khi đến kỳ sinh nở về nhà bố mẹ mình thì cũng không được sinh trong nhà bố mẹ mình, khi chết cũng không được chết trong nhà bố mẹ mình". Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, dân tộc Mông là một trong những dân tộc và giữ được những nét độc đáo riêng về bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc trong cuộc sống hội nhập hiện nay./.
nhạc múa hoa rừng dân tộc mông múa mèo